Hiển thị các bài đăng có nhãn Chứng khoán. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chứng khoán. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 24 tháng 2, 2024

Có phải Apple chiếm gần 50% giá trị danh mục đầu tư của Warren Buffett ?

Có phải Apple chiếm đến gần 50% danh mục đầu tư của Berkshire Hathaway (NYSE: BRK) - công ty đầu tư của tỷ phú Warren Buffet như ảnh dưới đây ? 

Rất nhiều nhà đầu tư dựa vào số liệu trên để cho rằng Warren Buffet đầu tư quá tập trung vào Apple, hay thay vì đầu tư vào BRK thì đầu tư trực tiếp vào Apple còn hơn.

Điều này Đúng mà cũng Không đúng ! 

Trước tiên cần phải hiểu BRK là công ty đầu tư vào cả doanh nghiệp niêm yếtkhông niêm yết (BRK sở hữu 100% cổ phần các doanh nghiệp này). Hình trên chỉ trình bày danh sách các doanh nghiệp niêm yết mà BRK đầu tư vào, trong khi BRK sở hữu rất nhiều doanh nghiệp không niêm yết khác, có thể xem ở danh mục dưới đây:


 Nguồn: Báo cáo thường niên 2022 của BRK

Vì vậy, cần phải hiểu đúng rằng Apple chiếm gần 50% danh mục đầu tư vào cổ phiếu niêm yết của BRK, chứ không phải gần 50% tổng danh mục đầu tư của BRK. Để tính tỷ trọng Apple trong tổng danh mục đầu tư của BRK, có thể tính bằng giá trị khoản đầu tư vào Apple (tại ngày 14/02/2024 là 165 tỷ USD) chia cho vốn hóa của BRK (tại ngày 14/02/2024 là 868 tỷ USD) bằng 19%.

Chính ngài Warren Buffett đã trả lời câu hỏi tương tự, độc giả có thể theo dõi ở Video dưới đây:

Nguồn: Đại hội cổ đông năm 2023 của BRK
Share:

Chủ Nhật, 19 tháng 3, 2023

SVB có thật sự chết vì “giấu lỗ” đầu tư trái phiếu?

Trong tuần qua, một số ngân hàng nhỏ tại Mỹ gặp khó khăn, điển hình là Silicon Valley Bank (SVB), khi khách hàng rút tiền quy mô lớn, buộc phải bán trái phiếu HTM (loại trái phiếu được phân loại nắm đến đáo hạn) trước thời hạn, ghi nhận một khoản lỗ lớn do giá các trái phiếu đã giảm mạnh, dẫn đến âm vốn chủ sở hữu. Trên các diễn đàn xuất hiện một số luồng quan điểm là SVB đầu tư quá rủi ro, phân bổ quá nhiều vào trái phiếu, đồng thời giấu lỗ khi phân loại phần lớn trái phiếu này thành HTM thay vì AFS (loại phải mark – to – market). Liệu có thật sự như vậy?

Ngân hàng thương mại hoạt động như thế nào?

Trước tiên ta hãy cùng tìm hiểu một ngân hàng thương mại truyền thống hoạt động như thế nào.

Ngân hàng thương mại truyền thống sẽ huy động tiền nhàn rỗi từ các cá nhân, doanh nghiệp trong nền kinh tế, sau đó dùng nguồn tiền này để cho vay ăn chênh lệch lãi suất. Và để có thể cho vay với lãi suất cao hơn lãi suất huy động, kỳ hạn các khoản cho vay thường dài, trong khi các khoản huy động thường có kỳ hạn ngắn.

Chính vì có sự chênh lệnh kỳ hạn giữa bên phần tài sản (cho vay) và nợ phải trả (huy động), để đảm bảo nhu cầu thanh khoản, ngân hàng sẽ không cho vay 100% số tiền huy động được, mà thường để khoảng 10%-15% dự trữ để khi người gửi cần rút tiền thì có thể trả lại ngay. Các khoản dữ trữ thường để dưới dạng tiền mặt, tiền gửi lại ngân hàng nhà nước, và đầu tư vào tài sản thanh khoản cao (trái phiếu chính phủ .v.v.) để kiếm một chút lợi tức bù đắp cho chi phí huy động.

Thông thường các ngân hàng đều hướng đến xây dựng một nguồn huy động ổn định. Mặc dù kỳ hạn các khoản huy động là ngắn, nhưng phần lớn khách hàng sẽ tái tục, và luôn có một lượng khách hàng gửi mới vào bù đắp cho lượng tiền rút ra. Như vậy ngân hàng nhìn chung ngân hàng sẽ yên tâm mang tiền đi cho vay kỳ hạn dài.

Việc khách hàng rút vốn quy mô lớn (bank-run) là ác mộng đối với ngân hàng, bởi ngân hàng không thể thu hồi các khoản cho vay của mình trong thời gian ngắn. Trong trường hợp này ngân hàng phải nhanh chóng huy động nguồn vốn mới với chi phí rất cao hoặc phải bán thanh lý tài sản với giá rẻ mạt để có tiền trả cho khách hàng. Trường hợp xấu nhất, ngân hàng phải cầu cứu đến Ngân hàng Nhà nước đứng ra đảm bảo và hỗ trợ thanh khoản để nhanh chóng chấm rứt tình trạng rút tiền, nếu không ngân hàng sẽ phá sản.

SVB phân bổ tài sản như thế nào

Dưới đây là bảng cân đối của SVB tại cuối năm 2022 (nguồn Yahoo Finance):


Có thể thấy phần lớn tài sản của SVB được phân bổ dưới dạng tài sản thanh khoản cao như tiền (6.5%) và đầu tư trái phiếu (56,6%), trong khi quy mô các khoản cho vay khá thấp. Nguyên nhân là Ngân hàng này huy động được quá nhiều tiền, chủ yếu là từ các công ty công nghệ, trong 2 năm Covid nhưng chưa cho vay ra được. 76% các trái phiếu của SVB được phân loại vào HTM, có tính chất tương tự như các khoản cho vay, nhằm kiếm một mức lợi suất nhất định bù đắp chi phí huy động.

Như vậy có thể thấy tài sản thanh khoản ngân hàng này rất dồi dào có thể đáp ứng nhu cầu rút tiền bình thường của khách. Nhưng khách hàng lại rút tiền một cách “không bình thường”. Chỉ trong một ngày, quy mô tiền gửi yêu cầu rút ra lên đến 42 tỷ (tương đương 25% tổng tiền gửi, 20% tổng tài sản), khiến SVB phải thanh lý các trái phiếu HTM của mình và ghi nhận lỗ (do phần lớn các trái phiếu này đầu tư trong giai đoạn lợi suất thấp).

Trái phiếu HTM có phải là cách SVB giấu lỗ?

Giáo sư Mark Meldrum có một video rất hay về vấn đề này, link video tại đây.

Trước tiên hãy lấy một ví dụ đơn giản để hiểu 2 định nghĩa: Carrying value và Fair value của trái phiếu.

+ Đầu tư một trái phiếu 100 tỷ, lợi suất 2%, thời hạn 1 năm: Nếu bỏ qua rủi ro tín dụng và nắm đến đáo hạn (nắm giữ 1 năm), thì chắc chắn sẽ nhận được 102 tỷ, không ảnh hưởng bởi lãi suất thị trường. Đây chính là carrying value của trái phiếu. Các khoản cho vay cũng là một loại HTM, bởi ngân hàng sẽ nắm giữ các khoản này đến đáo hạn để thu được carrying value.

+ Vẫn đầu tư trái phiếu trên, nhưng phải bán thanh lý giữa kỳ, thì sẽ phải bán thanh lý theo fair value của trái phiếu (chứ không phải carrying value). Trường hợp lãi suất thị trường tăng, fair value sẽ thấp hơn carrying value và ngược lại.

Đối với các ngân hàng thương mại, nếu mục đích đầu tư trái phiếu là thu được carrying value thì sẽ được phân loại HTM, nếu mục đích là để trading/ hoặc bán đi trong ngắn hạn để đảm bảo thanh khoản thì sẽ được phân loại Trading hoặc AFS.

Trong trường hợp của SVB, ngân hàng này phân loại 91 tỷ trái phiếu vào HTM cũng dễ hiểu. Bởi ngân hàng này chưa đẩy cho vay được, nên đầu tư vào trái phiếu để thu được lợi tức (carrying value) tương tự các khoản cho vay. Do đó không thể khẳng định SVB phân loại trái phiếu thành HTM để giấu lỗ.

Vấn đề của SVB là rủi ro tập trung bên phần huy động

Vấn đề của SVB là có một cơ cấu huy động rủi ro. Cơ cấu huy động quá tập trung vào các doanh nghiệp công nghệ. Khi ngành này này gặp khó khăn, các doanh nghiệp không huy động thêm được vốn, đồng loạt rút tiền gửi về, thì SVB phải bán thanh lý các khoản trái phiếu HTM, ghi nhận lỗ theo fair value, chứ không được ghi nhận theo carrying value nữa. Trường hợp SVB không đầu tư trái phiếu HTM, mà đổi thành các khoản cho vay, thì rủi ro cũng vẫn xảy ra.

Nguồn: Báo cáo phân tích của JP Morgan.

Tại sao SVB không hedge/quản trị các rủi ro của mình?

- Ngân hàng kiếm lời dựa trên các rủi ro mà họ hiểu biết và thông thạo. Nếu hedge toàn bộ các rủi ro thì ngân hàng sẽ không kiếm được lợi nhuận. (No risk – risk free return). Sẽ chẳng có ngân hàng nào mua bảo hiểm rủi ro tín dụng cho toàn bộ các khoản cho vay cũng như hedge toàn bộ rủi ro chênh lệnh kỳ hạn giữa tài sản và nguồn vốn.

- Rủi ro tập trung rất khó để quản trị. Tỷ lệ rút tiền lên đến 25% tổng huy động vốn trong 1 ngày vượt ngoài mọi kịch bản quản trị rủi ro của các ngân hàng.

Nhà đầu tư cá nhân học được gì từ câu chuyện SVB    

SVB có CAR lên đến 15% nhưng vẫn bị xóa sổ chỉ trong 1 “nốt nhạc”, giá cổ phiếu công ty mẹ sụt mạnh trước khi nhà đầu tư biết chuyện gì đã xảy ra. Vì vậy hãy giảm sự quan tâm đến CAR, thay vào đó hãy xem ngân hàng đó đang “take risk” như thế nào cả ở 2 đầu tài sản và nguồn vốn.

Hãy cẩn trọng với những ngân hàng có rủi ro tập trung cao, bởi rủi ro này rất khó quản trị. Các phương thức quản trị rủi ro hiện tại phần lớn dựa trên dữ liệu quá khứ, còn rủi ro tập trung thì thường tạo ra thiên nga đen (những thứ chưa từng xảy ra bao giờ).

Share:

Chủ Nhật, 12 tháng 3, 2023

“Chân dung” người chiến thắng trong trò chơi trading

*trader: những người mua đi bán lại chứng khoán trong thời gian ngắn, kiếm lời từ biến động giá cả cổ phiếu.
*trading: hành động mua đi bán lại cổ phiếu liên tục.
*broker: những người làm nghề môi giới chứng khoán.

Có thể những nhà đầu tư mới sẽ vô cùng ngưỡng mộ những trader giàu có, những broker với vẻ ngoài hào nhoáng, để rồi cũng lao theo trò chơi trading với mong muốn làm giàu nhanh. Tuy nhiên đây không phải là trò chơi mà số đông có thể dành chiến thắng. Có một con số thống kê thường được sử dụng, đó là trên 90% nhà đầu tư thua lỗ khi đầu tư chứng khoán. Đây không phải là một con số vu vơ, một công ty chứng khoán lớn đã thực hiện nghiên cứu tệp khách hàng của mình và phát hiện ra rằng, trên 90% khách hàng của họ thua lỗ và rời bỏ thị trường sau 2 năm. Quy mô khách hàng của công ty đủ lớn để có thể đại diện cho toàn bộ nhà đầu tư chứng khoán tại Việt Nam.

Vậy tại sao có rất nhiều người thành công xung quanh tôi?  

Đây là câu hỏi phản biện mà nhiều nhà đầu tư đặt ra khi đối mặt với thống kê trên. Có thể giải thích điều này bằng 2 lý do: thứ nhất, những người thành công thì thường nổi tiếng và được nhiều người biết đến, còn người thất bại thì im lặng và ẩn mình (đây gọi là thiên vị sống sót); thứ hai, lúc bạn quan tâm đến chứng khoán là lúc thị trường bull, khi đó ai cũng là người chiến thắng, đến lúc thị trường giảm, nhiều người thua lỗ thì bạn cũng không quan tâm đến chứng khoán nữa. Hoặc lý do thứ 3 có thể những người bạn nhìn thấy đang cố gắng “lừa bạn” vì một mục đích nào đó  (để bán hàng chẳng hạn).

10% người chiến thắng là ai ? Họ có đặc điểm gì ?

Có thể phân loại những người chiến thắng thành 3 nhóm sau đây:

Nhóm 1 : Người có đầy đủ ‘điều kiện’ để chiến thắng 

Đó là những người giỏi thuộc top 10%, có kiến thức, kinh nghiệm, và có thời gian nghiêm túc dành cho việc trading. Điều này gần như là hiển nhiên, bởi những người giỏi thuộc TOP của bất cứ ngành nghề nào đều kiếm được nhiều tiền.

Nhóm 2 : Nhóm ‘gian lận’

Nhóm này bao gồm những người nắm được những thông tin mà phần đông không thể có được; những đội nhóm thao túng (hoặc mua/bán theo nhóm thao túng) giá cổ phiếu;… Nhóm này thường giàu rất nhanh và rất ít khi thua lỗ. Tuy nhiên rủi ro là có thể phải ‘bóc lịch’ nếu bị phát hiện.

Nhóm 3 : Nhóm may mắn

Cái tên nói lên tất cả, tuy nhiên đây là nhóm không bền vững, bởi không ai may mắn được mãi.

Bạn tự đánh giá mình thuộc nhóm nào?

Về mặt lý trí, có lẽ chúng ta đều muốn thuộc Nhóm 1, tuy nhiên không dễ để làm được điều này. Tôi đã từng lướt qua website bán các khóa học trading và thấy học viên của họ nào là kỹ sư, nào là bác sĩ, nào là nhân viên văn phòng…. Những người đó chỉ học một vài khóa học qua loa thì làm sao có thể đủ giỏi thuộc TOP 10%, lại còn đang làm việc full-time thì làm sao dành thời gian nghiêm túc cho việc trading? Nhiều khi sa đà vào trading chứng khoán, vừa thua lỗ vừa ảnh hưởng đến công việc chính.

Trên 90% nhà đầu tư phổ thông không thuộc nhóm nào trong 3 nhóm trên, do đó về dài hạn là thua lỗ. Tuy nhiên trading không phải là cách duy nhất để kiếm tiền từ thị trường chứng khoán. Có một cách khác để kiếm tiền với xác suất thành công cao hơn, dễ thực hiện hơn, tuy nhiên lại là cách "làm giàu chậm", đó chính là "đầu tư theo đúng định nghĩa sách giáo khoa". Xét cho cùng, "giàu chậm" vẫn hơn là thua lỗ.   

Share:

Thứ Bảy, 4 tháng 3, 2023

Trading cổ phiếu liên tục có phải là Zero-sum game ?

Định nghĩa

Trading là hành động mua đi bán lại cổ phiếu một cách liên tục nhằm kiếm lời từ biến động giá cổ phiếu.

Zero-sum game - Trò chơi có tổng bằng 0, là trò chơi mà tổng số tiền người thắng kiếm được sẽ bằng tổng số tiền người thua thua lỗ. Các sới bạc là điển hình của loại trò chơi này. Đặc điểm của loại trò chơi này là: sẽ có ít người thắng và rất nhiều người thua lỗ. Về mặt toán học, càng ít người thắng thì người chiến thắng sẽ càng kiếm được nhiều tiền. Do đó các trò chơi kiều này hay xảy ra tình trạng “gian lận”.

Vậy trading cổ phiếu có phải là zero-sum game hay không?

Gần như là vậy.

Để đơn giản hóa, hãy hình dung cổ phiếu X là một tài sản có giá trị 100,000 VNĐ, trong khi đó giá cả của cổ phiếu X liên tục được giao dịch ở mức từ 100,000 – 102,000 VNĐ. (Xem thêm về Giá trị và Giá cả cổ phiếu ở đây).

Người A trading liên tục kỳ vọng mua cổ phiếu X ở mức giá thấp (ví dụ 100,000) và bán với giá cao hơn (ví dụ 102,000) cho người B để kiếm lời 2,000 VNĐ. Tuy nhiên người B lại mua cổ phiếu ở đúng đỉnh 102,000 VNĐ, do đó nếu so với giá trị thật của X thì người B đang lỗ 2,000 VNĐ, bằng đúng số tiền mà người A kiếm được.

Cũng có trường hợp không phải.

Giả sử giá cổ phiếu X được giao dịch quanh mức 98,000 – 102,000 VNĐ. Người A mua ở mức 98,000 sau đó bán lại cho người B ở mức 102,000 VNĐ. Khi đó người A kiếm được lợi nhuận 4,000 VNĐ trong khi người B lỗ 2,000 VNĐ. Như vậy tổng số tiền kiếm được lớn hơn tổng số tiền thua lỗ. Ví dụ này khác ví dụ trên ở chỗ A đã mua được cổ phiếu với giá thấp hơn giá trị thật của nó.

Tuy nhiên thực tế lại phức tạp hơn.

Cũng ví dụ trên, người A kiếm lời 4,000 VNĐ, tuy nhiên do thị trường chứng khoán biến động mạnh, người B vì lo sợ đã cắt lỗ cổ phiếu X ở mức giá 98,000 VNĐ, do đó thua lỗ đúng 4,000 VNĐ, bằng số tiền người A kiếm được. Và đây là trường hợp phổ biến trong thực tế, vì khi trading, phần lớn mọi người sẽ không quan tâm giá trị thật của cổ phiếu X là bao nhiêu.

Một đặc điểm khác cũng giống Zero-sum game

Đó là tỷ lệ người chiến thắng trong “trò chơi trading” thường rất ít, và những người này thường kiếm được rất nhiều tiền. Tình trạng “gian lận” cũng diễn ra phổ biến trong trò chơi này, minh chứng là một số “đội nhóm thao túng” vừa bị bắt và khởi tố trong thời gian vừa qua. Chính vì vậy, trước khi quyết định trading cổ phiếu, nhà đầu tư nên tìm hiểu xem mình có đặc điểm của “người chiến thắng” hay không để giảm thiểu việc mất tiền vô ích.

Đón đọc “Chân dung của người chiến thắng” cuối tuần sau.

Share:

Thứ Bảy, 18 tháng 2, 2023

Chứng quyền là gì? Lưu ý khi đầu tư chứng quyền?

Chứng quyền (tiếng anh là Covered warrant – CW) là một loại chứng khoán phái sinh do các công ty chứng khoán phát hành, dựa trên một cổ phiếu cơ sở nào đó để xác định lãi lỗ (ví dụ chứng quyền C-FPT là dựa trên giá cổ phiếu FPT). Đây là một sản phẩm có tính đòn bẩy, do đó nhà đầu tư có thể lãi nhiều hơn khi giá cổ phiếu FPT tăng nếu mua C-FPT thay vì mua chính cổ phiếu FPT, đồng thời cũng có thể thua lỗ nhiều hơn, thậm chí là mất trắng nếu giá cổ phiếu FPT giảm. Để hiểu rõ hơn, hãy cùng xem xét ví dụ về chứng quyền FPT dưới đây:

Hình 1: Chứng quyền FPT, được công ty Chứng khoán BSC phát hành, niêm yết trên sàn HOSE với mã CFPT2301 (nguồn: Vietstock).

Một số thông tin về chứng quyền từ hình trên:

Mua chứng quyền: tương tự như mua cổ phiếu, mã giao dịch là CFPT2301.

Giá chứng quyền phiên gần nhất: 2,170 VNĐ/chứng quyền.

Giá chứng khoán cơ sở (cổ phiếu FPT) phiên gần nhất: 81,600 VNĐ/cổ phiếu.

Giá thực hiện (dùng để tính lãi lỗ): 84,000 (giải thích chi tiết ở bên dưới).

Giá hòa vốn: 97,020. Nếu nhà đầu tư mua chứng quyền ở giá hiện tại (2,170 VNĐ), thì khi giá cổ phiếu FPT đạt 97,020 nhà đầu tư sẽ hòa vốn (giải thích chi tiết ở bên dưới).

Khi tìm hiểu thông tin chi tiết về chứng quyền, ta có các thông tin sau:

Hình 2: Thông tin chi tiết về chứng quyền (nguồn: Vietstock).

Một số thông tin cần lưu ý khi tìm hiểu về CW:

Ngày giao dịch cuối cùng 23/06/2023 và ngày đáo hạn 27/06/2023

Đây là ngày cuối cùng để nhà đầu tư có thể mua/bán CW, sau ngày này nếu vẫn còn tiếp tục nắm giữ chứng quyền thì công ty chứng khoán sẽ tính toán lãi lỗ để thanh toán cho nhà đầu tư trong vòng (5) ngày sau ngày đáo hạn 27/06/2023.

Giá thực hiện 84,000

Đây là mức giá để tính lãi lỗ. Khi nắm giữ đến ngày đáo hạn, nếu giá bình quân 5 phiên gần nhất của cổ phiếu FPT lớn hơn 84,000 thì nhà đầu tư sẽ được CTCK thanh toán tiền cho phần chênh. Lãi/lỗ thực tế của nhà đầu tư sẽ bằng số tiền nhận được này trừ đi số tiền nhà đầu tư bỏ ra mua chứng quyền.

Tỷ lệ chuyển đổi 6 : 1

Sở hữu 6 chứng quyền tương đương 1 cổ phiếu FPT khi tính lãi lỗ. Nhà đầu tư có thể thấy 6 chứng quyền hiện có giá 2,170 VNĐ x 6 = 13,020 VNĐ, rẻ hơn rất nhiều khi mua 1 cổ phiếu FPT với giá 81,600 VNĐ. Chính vì vậy CW là sản phẩm có tính đòn bẩy.

Tính lãi lỗ của CW khi nắm giữ tới đáo hạn như thế nào?

Hãy cùng xem xét ví dụ sau: Nhà đầu tư mua 10000 chứng quyền bên trên với giá 2170 VNĐ/chứng quyền, nắm giữ tới đáo hạn. Hãy tính lãi/lỗ của nhà đầu tư nếu giá cổ phiếu FPT bình quân 5 phiên gần nhất trước ngày đáo hạn là: Trường hợp 1: 100,000; Trường hơp 2: 81,000; Trường hợp 3: 97,020? So sánh với lợi nhuận đầu tư vào cổ phiếu FPT thay vì chứng quyền ? (bỏ qua các loại thuế/phí).

Giải:

Số tiền gốc bỏ ra đầu tư là: 10,000 x 2,170 = 21,700,000 VNĐ.

Số tiền này dung để mua 10,000 chứng quyền với giá 2,170 VNĐ/chứng quyền hoặc mua 265 cổ phiếu FPT với giá 81,600 VNĐ/cổ phiếu.

Trường hợp 1: Giá FPT là 120,000

  • Số tiền lãi nếu đầu tư vào cổ phiếu FPT = 265 x (120,000 – 81,600) = 10,176,000 (tương đương tỷ suất lợi nhuận 47%).
  • Số tiền lãi nếu đầu tư vào chứng quyền.
    • Quy đổi số cổ phiếu FPT sở hữu = 10,000 / 6 = 1,666.67 CP. (tỷ lệ chuyển đổi 6:1).
    • Lợi nhuận quy đổi = 1,666.67 x (100,000 – 84,000) = 60,000,120 VNĐ. (84,000 VNĐ là mức giá thực hiện, dùng để tính lãi lỗ).
    • Lợi nhuận trừ chi phí mua chứng quyền = 60,000,120 – 21,700,000 = 38,300,120. (tương đương tỷ suất lợi nhuận 176%).

Như vậy đầu tư vào chứng quyền lãi hơn nhiều so với đầu tư vào CP FPT.

Trường hợp 2: Giá FPT là 81,000  

  • Số tiền lỗ nếu đầu tư vào cổ phiếu FPT = 265 x (81,000 – 81,600) = -159,000 (tương đương lỗ 0.7%).
  • Số tiền lỗ nếu đầu tư vào chứng quyền:
    • Quy đổi số cổ phiếu FPT sở hữu = 10,000 / 6 = 1,666.67 CP. (tỷ lệ chuyển đổi 6:1)
    • Vì 81,000 < 84,000 nên Nhà đầu sẽ không được thanh toán
    • Tổng mức lỗ = 0 – 21,700,000 =  - 21,700,000. (tương đương lỗ 100% số tiền đầu tư).

Trong trường hợp này đầu tư vào chứng quyền thua lỗ lớn hơn rất nhiều so với đầu tư cổ phiếu.

Trường hợp 3: Giá FPT là 97,020

  • Số tiền lãi nếu đầu tư vào cổ phiếu FPT = 265 x (97,020 – 81,600) = 4,086,300 (tương đương tỷ suất lợi nhuận 18,8%).
  • Số tiền lãi nếu đầu tư vào chứng quyền:
    • Quy đổi số cổ phiếu FPT sở hữu = 10,000 / 6 = 1,666.67 CP. (tỷ lệ chuyển đổi 6:1)
    • Lợi nhuận quy đổi = 1,666.67 x (97,020 – 84,000) = 21,700,043 VNĐ.
    • Lợi nhuận trừ chi phí mua chứng quyền = 21,700,043 – 21,700,000 = 43. (tương đương tỷ suất lợi nhuận 0%).

Như vậy đầu tư vào chứng quyền trong trường hợp này là hòa vốn, và mức giá cổ phiếu 97,020 được gọi là mức giá hòa vốn của chứng quyền. Nhà đầu tư có thể tính nhanh ra con số này bằng công thức 2,170 x 6 + 84,000 = 97,020 (Giá chứng quyền x tỷ lệ chuyển đổi + giá thực hiện). 

Tại sao chứng quyền lại có giá trị khi mà mức giá của chứng khoán cơ sở thấp hơn cả mức giá hòa vốn ?

Vì giá trị của chứng quyền bao gồm 2 phần : Giá trị thời gian (hay còn gọi là giá trị đầu cơ) + Giá trị nội tại.

+ Giá trị nội tại tính toán theo cách vừa trình bày bên trên, và hoàn toàn có thể bằng 0 (khi giá cổ phiếu cơ sở thấp hơn giá hòa vốn).

+ Giá trị thời gian được tính toán bằng một công thức tương đối phức tạp, tuy nhiên có thể hiểu một cách đơn giản như sau : Vì chứng quyền có 1 khoảng thời gian nữa mới đáo hạn, nên rất có thể trong thời gian đó giá cổ phiếu cơ sở sẽ tăng mạnh, vượt qua ngưỡng hòa vốn và có lãi, điều này tạo nên giá trị thời gian của chứng quyền. Giá trị thời gian của chứng quyền sẽ giảm dần về 0 khi chứng quyền càng gần ngày đáo hạn.

+ Như vậy giá của chứng quyền sẽ tiến dần về giá trị nội tại khi càng đến gần ngày đáo hạn. Nếu giá trị nội tại bằng 0 thì giá chứng quyền sẽ tiến dần về 0.

+ Một lưu ý khác cho nhà đầu tư muốn nắm giữ chứng quyền trong một thời gian dài là : Tại ngày hôm nay, giá chứng khoán cơ sở là 81,600 thì giá chứng quyền là 2,170 ; nhưng sau 2 tháng nữa, nếu giá chứng khoán cơ sở vẫn ở mức 81,600 thì giá chứng quyền sẽ thấp hơn 2,170 rất nhiều (do giá trị thời gian đã giảm đi).

Nếu giá của chứng khoán cơ sở nhỏ hơn giá hòa vốn (giá trị nội tại = 0) thì có thể kiếm lời từ chứng quyền hay không ?

Có. Trong một khoảng thời gian ngắn (vài phiên giao dịch), thì giá chứng quyền sẽ biến động mạnh hơn giá cổ phiếu cơ sở. Nếu giá cổ phiếu cơ sở tăng 3% thì giá chứng quyền có thể tăng trên 10%. Giá chứng quyền biến động mạnh nhất khi mức giá chứng khoán cơ sở dao động quanh mức giá thực hiện (trong ví dụ trên là 84,000).

Quy mô giao dịch chứng quyền khá nhỏ, giá chứng quyền có thể bị ‘thao túng’ một cách dễ dàng hay không ?

Không. Giá chứng quyền được nhà tạo lập (là công ty chứng khoán phát hành) niêm yết giá mua/bán 2 đầu theo một công thức tính toán nhất định, phù hợp với giá của chứng khoán cơ sở. Muốn ‘thao túng’ giá chứng quyền phải ‘thao túng’ giá của chứng khoán cơ sở, và điều này có vẻ như không khả thi và cũng không hợp lý về mặt chi phí.

Có nên đầu tư chứng quyền hay không ?

Chứng quyền là sản phẩm có rủi ro cao, phù hợp với dân chuyên nghiệp, những nhà đầu tư mới, không chuyên thì không nên tham gia. Trường hợp vẫn muốn tham gia để biết thì chỉ nên đầu tư với quy mô nhỏ, không nên thấy lãi nhiều mà ham (các sản phẩm có tính 'cờ bạc' thường gây nghiện), và khi thua lỗ cũng không ảnh hưởng gì đến tình hình tài chính của bản thân và gia đình. 

Share:

Thứ Bảy, 4 tháng 2, 2023

Đầu tư chứng khoán có lỗ không?

Trong bài viết này đầu tư chứng khoán có nghĩa là đầu tư cổ phiếu.

Thời gian trước, tôi được một người thân gửi tiền nhờ đầu tư chứng khoán. Thời điểm đó là bull-market, xung quanh ai cũng khoe lãi chứng khoán, chỉ cần mua là có lãi,… do đó tôi rất sợ người thân nghĩ rằng đầu tư là không có rủi ro, không bao giờ mất tiền, sợ rằng tôi sẽ phải ‘đền tiền’ nếu làm thua lỗ. Tôi mới hỏi lại để làm rõ: ‘Đầu tư là có rủi ro đó, nếu năm tới lỗ 20% thì có chịu được không ?. Thế là người đó giãy nảy lên: ‘Có thể lỗ à, thế thì thôi không đầu tư nữa, để đi mua đất’. Có lẽ thị trường năm 2020-2021 đã dạy cho nhiều nhà đầu tư bài học sai lầm đó.

Đã đầu tư là đi kèm với rủi ro. Kể cả mua đất cũng phải đối mặt với các rủi ro như pháp lý (đất không cấp được sổ đỏ, đất vướng quy hoạch…), rủi ro thị trường (giá đất giảm và duy trì ở mức giá thấp trong nhiều năm…), rủi ro thanh khoản (khi thị trường đóng băng không bán được) .v.v.. Hay kể cả gửi tiết kiệm cũng gặp rủi ro mất tiền nếu gửi tại các ngân hàng yếu kém (rất may hiện tại Ngân hàng Nhà nước vẫn đứng ra bảo vệ lợi ích người gửi tiền). Đầu tư chứng khoán cũng vậy, cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, có thể kể đến một số rủi ro sau :

(1) Rủi ro thị trường: Thị trường chứng khoán chịu tác động bởi rất nhiều yếu tố như về vĩ mô, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, chính trị, tin đồn, cung cầu .v.v.. khiến giá cổ phiếu biến động hàng ngày và rất khó đoán. Không thể kỳ vọng mua cổ phiếu xong là có lãi ngay hoặc lúc nào cũng có lãi. Thậm chí khi thị trường không thuận lợi, giá cổ phiếu có thể ở mức thấp trong một khoảng thời gian dài dài - mặc dù đó là doanh nghiệp tốt và giá thấp hơn giá trị thật rất nhiều. Ví dụ gần nhất chính là thị trường chứng khoán năm 2022, nhiều yếu tố tác động đã khiến VNIndex và nhiều cổ phiếu giảm sâu dưới giá trị thật của nó.

(2) Rủi ro mua phải cổ phiếu rác/bị thao túng: Đây là rủi ro mua phải các doanh nghiệp rỗng/rác, hoạt động kinh doanh không có gì nhưng giá cổ phiếu được bơm thổi lên rất cao. Mua phải loại cổ phiếu này thì việc lãi lỗ phụ thuộc nhiều vào người bí ẩn tên ‘lái’. Nếu nhà đầu tư mua đúng đỉnh thì việc bán cắt lỗ có khi cũng khó vì giá cổ phiếu thường ‘sàn trắng bên mua’. Ví dụ điển hình là các cổ phiếu thuộc họ ROS (hình dưới), hay họ Louis mới bị phanh phui trong năm trước (2022). 

Hình 1: Diễn biến giá cổ phiếu ROS: sau khi bị thao túng thổi giá lên trên 150 nghìn, giá cổ phiếu liên tục giảm mạnh và có lúc xuống giá 'trà đá'.

(3) Rủi ro mua với giá quá đắt: Ngay kể cả khi nhà đầu tư mua được một doanh nghiệp tốt, nhưng trả một cái giá quá cao, thì cũng có thể mất nhiều thơi gian đề thu hồi lại vốn. Ví dụ điển hình như đu đỉnh cổ phiếu FPT vào năm 2008 thì đến năm 2019 mới ‘về bờ’ (hình dưới).

Hình 2: Diễn biến giá cổ phiếu FPT từ năm 2008 đến 2020.

(4) Rủi ro biến cố trong kinh doanh: Ví dụ gần nhất có lẽ là Covid-19. Sự diễn ra bất ngờ của Covid-19 đã khiến Vietnam Airline lỗ gần 35 nghìn tỷ đồng trong 3 năm 2020 – 2022, tương đương với lợi nhuận của 14 năm kinh doanh ổn định (lợi nhuận khoảng 2,300 tỷ/năm). Rõ ràng biến cố Covid đã khiến giá trị của Vietnam Airline giảm đi rất nhiều.

Tổng kết lại, đầu tư chứng khoán tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Nếu muốn tự đầu tư thành công thì phải có kiến thức, kỹ năng phù hợp – hãy coi đây là một nghề như các nghề khác, không có đầu bếp dở nào mà nhà hàng lại đông khách cả. Còn nếu ủy thác cho các chuyên gia hay gửi tiền vào các quỹ đầu tư thì phải chấp nhận lời ăn, lỗ chịu. Bất cứ chuyên gia nào mà cam kết bao lỗ thì nên dè chừng bởi luật pháp không cho phép ‘bao lỗ’, và điều này mang lại rủi ro rất lớn cho ‘chuyên gia’ đó về cả mặt luật pháp lẫn tài chính.

Share:

Thứ Bảy, 28 tháng 1, 2023

Trái phiếu doanh nghiệp là gì, có nên đầu tư?

Trái phiếu doanh nghiệp là loại chứng khoán xác nhận nghĩa vụ nợ của doanh nghiệp. Có thể hiểu đơn giản là doanh nghiệp vay tiền của nhà đầu tư, đưa cho nhà đầu tư ‘trái phiếu’ để làm bằng chứng là đã vay tiền và sẽ trả lại cả gốc và lãi trong tương lai.

Như vậy nhà đầu tư nếu nắm giữ trái phiếu đến đáo hạn sẽ thu được lợi nhuận là phần lãi suất doanh nghiệp cam kết trả cộng với tiền gốc cho vay. Rủi ro xảy ra nếu doanh nghiệp kinh doanh kém đi hoặc gặp biến cố nào đó dẫn đến không trả được nợ, thì nhà đầu tư sẽ tốn nhiều thời gian và công sức để đòi lại tiền của mình như : Thảo luận với doanh nghiệp để đưa ra phương án tái cơ cấu nợ phù hợp (tức là cho doanh nghiệp thêm một khoản thời gian để kiếm tiền trả nợ), hoặc bán tài sản bảo đảm. Trong trường hợp rủi ro nhất, nhà đầu tư có thể mất một phần hoặc toàn bộ tiền đầu tư nếu doanh nghiệp phá sản hoàn toàn và trái phiếu không có tài sản bảo đảm.  

Trong trường hợp nhà đầu tư bán trái phiếu trước thời điểm đáo hạn, thì giá mua đi bán lại sẽ thực hiện theo giá thị trường của trái phiếu tại thời điểm bán (chứ không phải giá trị gốc ghi trên trái phiếu). Giá thị trường lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như lãi suất thị trường, tình trang doanh nghiệp (tốt lên hay xấu đi), cung cầu và các yếu tố thị trường khác. Ví dụ như thời gian vừa qua, nhiều nhà đầu tư bán lại trái phiếu ồ ạt do lo ngại về các rủi ro liên quan đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp, rủi ro liên quan đến pháp lý .v.v. khiến lượng cung tăng cao trong khi lượng cầu không có, làm cho giá trái phiếu giảm rất mạnh, nhà đầu tư thua lỗ. Trong khi đó nếu doanh nghiệp vẫn đủ khả năng trả nợ, nhà đầu tư tiếp tục tin tưởng và nắm giữ đến đáo hạn, thì sẽ không phải chịu những tổn thất như vậy.

Với các giải thích ở bên trên, nhà đầu tư có thể hình dung được phần nào rủi ro liên quan đến trái phiếu doanh nghiệp. Rõ ràng trái phiếu doanh nghiệp không phải là sản phẩm an toàn như gửi tiết kiệm ngân hàng – vốn vẫn được ngân hàng nhà nước bảo vệ. Các văn bản pháp luật từ nhiều năm nay đã quy định chỉ nhà đầu tư chuyên nghiệp mới được đầu tư trái phiếu doanh nghiệp. Như thế nào là nhà đầu tư chuyên nghiệp ? – Đó là nhà đầu tư có thể tự đánh giá được các rủi ro của việc đầu tư và chấp nhận được các rủi ro đó để tự ra quyết định đầu tư (và đáp ứng các điều kiện quy định tại luật). Còn đối với các nhà đầu tư phổ thông (không chuyên) thì nên lựa chọn một quỹ đầu tư trái phiếu được cấp phép, có uy tín để đầu tư hoặc gửi tiết kiệm tại các ngân hàng cho an toàn. Hi vọng rằng trong tương lai gần thị trường trái phiếu sẽ phát triển hơn, lành mạnh hơn, nhiều doanh nghiệp tốt phát hành trái phiếu và các nhà đầu tư sẽ có kiến thức tốt hơn để tham gia.   

Share:

Chủ Nhật, 21 tháng 11, 2021

“Trên đỉnh” “Phố wall”

Giá cổ phiếu các công ty chứng khoán (tôi gọi vui là các công ty “phố wall” tại Việt Nam) trong thời gian gần đây tăng không ngừng nghỉ. Kể từ mức đáy covid (tháng 3/2020), giá một số cổ phiếu đã tăng gấp 6 - 8 lần, thậm chí nhiều hơn, kéo theo mức định giá cũng lên mức đỉnh mọi thời đại (PB từ 4-5 lần). Đằng sau mức tăng giá phi thường đó là nhiều câu chuyện hay như: (1) Tỷ lệ dân số có tài khoản chứng khoán vẫn còn ở mức thấp (3% - 4% dân số), người dân sắp chuyển từ thời kỳ tiết kiệm sang đầu tư nên tiềm năng tương lai rất tươi sáng; (2) Các công ty chứng khoán cho ra mắt eKYC khiến việc mở tài khoản online dễ đàng hơn; (3) Số lượng tài khoản chứng khoán mở mới liên tục duy trì ở mức cao, là ngành hiếm hoi lãi to trong bối cảnh covid; (4) Liên tục tăng vốn, đẩy mạnh cho vay margin nên kỳ vọng lợi nhuận tiếp tục tăng mạnh.

Tôi không phủ nhận các câu chuyện trên, thậm chí còn đánh giá rất cao triển vọng dài hạn của ngành này như đã thể hiện ở bài viết tại link. Tuy nhiên chỉ triển vọng thôi là chưa đủ để ra quyết định đầu tư, bởi một mức giá quá đắt có thể đã phản ánh hết (thậm chí là vượt quá) triển vọng đó rồi. Một số người bạn gần đây hỏi tôi có nên đầu tư cổ phiếu ngành này không, tôi đều khuyên rằng với mức định giá rất cao ở thời điểm hiện tại, hãy cân nhắc kỹ một số rủi ro như sau: 

  • (1) Ngành chứng khoán là một ngành chu kỳ, nên nếu chỉ nhìn P/E thấy rẻ để mua thì có thể mua đúng lúc E (Lợi nhuận sau thuế) đạt đỉnh, thay vào đó hãy nhìn P/B và mức ROE bình quân cả 1 chu kỳ. Nếu bạn không chuyên về tài chính thì có thể bỏ qua câu trên, hãy hiểu đơn giản là khi thị trường chứng khoán tăng giá (như năm 2020 và 2021), ai đầu tư cũng thắng, thì số lượng khách hàng của các công ty chứng khoán nhiều lên, cho vay margin được nhiều, danh mục tự doanh cũng lãi to, dẫn đến lợi nhuận khủng. Nhưng khi thị trường chứng khoán đi ngang hoặc giảm giá, nhiều nhà đầu tư lỗ bắt đầu rời bỏ thị trường, doanh thu phí giao dịch giảm, cho vay margin giảm, lợi nhuận tự doanh cũng kém hơn, thì khoản lãi khủng ở trên sẽ không duy trì được nữa, thậm chí giảm mạnh.

  • (2) Xu hướng nhà nhà “chơi” chứng khoán trong đại dịch covid-19 liệu có phải là xu hướng bền vững? Xu hướng này không chỉ xảy ra ở Việt Nam mà diễn ra trên toàn cầu. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến điều này như: người dân thất nghiệp muốn kiếm thêm thu nhập, thị trường toàn cầu sụt giảm mạnh vào tháng 3/2020 mang lại mức định giá hấp dẫn, các chính sách bơm tiền kích thích kinh tế tạo ra quá nhiều tiền nhàn rỗi… Các nguyên nhân nói trên hẳn không phải là nguyên nhân bền vững để kích thích sự phát triển của ngành. Liệu người dân còn đầu tư chứng khoán khi covid-19 kết thúc, khi hoạt động kinh doanh bình thường trở lại và mức định giá chứng khoán không còn hấp dẫn?

  • (3) Cạnh tranh trong ngành rất cao, vẫn còn đó cuộc chiến về phí. Trước năm 2020, cuộc chiến zero-fee, giảm lãi vay margin đã khiến biên lợi nhuận của các công ty trong ngành giảm mạnh. Từ năm 2020 trở lại đây, vì quy mô thị trường (số lượng khách hàng mới) nở ra quá nhanh nên chúng ta không nhìn rõ áp lực cạnh tranh này. Nhưng hãy nhớ rằng nguồn vốn giá rẻ của các CTCK Hàn Quốc vẫn còn đó, các CTCK lớn trong nước liên tục tăng vốn để chiếm lĩnh thị phần trong tương lai, sự tham gia của nhiều tay chơi mới như TCBS (trước đây chỉ tập trung mảng trái phiếu) khiến cạnh tranh trong ngành ngày càng cao.

Khi ra quyết định đầu tư, tôi khá thích áp dụng phương pháp 4M của Phil Town, trong đó chữ “M” thứ 4 rất quan trọng, là Margin of safety, hiểu đơn giản là trả một mức giá hợp lý. Nếu trả một mức giá quá cao, cho dù đó là doanh nghiệp tốt đi chăng nữa, thì bạn hoàn toàn có thể phải ở “Trên đỉnh” một thời gian khá dài (tham khảo bài viết về điều này tại link). Đánh đổi với điều đó là chi phí cơ hội, chi phí lãi vay (nêu có vay), cắt lỗ, và rất nhiều chi phí ẩn khác (như cảm xúc),…. Tôi hi vọng rằng các nhà đầu tư (đặc biệt là nhà đầu tư mới) nên tỉnh táo, cẩn trọng khi ra quyết định đầu tư vào lúc này. 


Tuyên bố miễn trách: Bài viết chia sẻ quan điểm cá nhân, không khuyến nghị mua bán cổ phiếu, và thực tế tôi cũng không đoán được giá cổ phiếu tăng hay giảm. 

Công bố về mâu thuẫn lợi ích: Tại thời điểm viết và đăng bài, tôi không nắm giữ vị thế nào liên quan đến cổ phiếu ngành chứng khoán, không được hưởng lợi từ việc tăng/giảm giá cổ phiếu ngành này.

Share:

Thứ Hai, 16 tháng 8, 2021

Techcombank - ngân hàng siêu lợi nhuận cho vay gì trong mùa Covid ?

Lướt qua Báo cáo tài chính của Techcombank (TCB) từ năm 2020 trở lại đây, có thể thấy ngân hàng này đẩy mạnh cho vay doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, ngành nghề mà ngân hàng này xác định là mũi nhọn và có hiểu biết chuyên sâu:

(nguồn: BCTC của TCB)

Xuyên suốt năm 2020, chỉ có lĩnh vực trái phiếu và kinh doanh bất động sản là tăng trưởng, cho vay các lĩnh vực khác và cho vay cá nhân gần như đi ngang. Sang nửa đầu năm 2021, tăng trưởng tín dụng có vẻ đồng đều hơn khi mà cho vay cá nhân và ngành nghề khác có ghi nhận tăng trưởng.

Nhận định về danh mục cho vay của TCB thì hiện có 2 trường phái. Một trường phái cho rằng đây là chiến lược kinh doanh của ngân hàng, lựa chọn các doanh nghiệp đầu ngành trong lĩnh vực mà ngân hàng hiểu biết chuyên sâu, do đó khá an toàn. Trường phái thứ hai thì lo ngại về rủi ro tập trung ngành nghề của danh mục cho vay này.

Tỷ lệ Casa của TCB tăng mạnh trong mùa Covid, cần thêm thời gian để kiểm chứng mức tăng mạnh mẽ này mang tính bền vững hay chỉ mang tính mùa vụ.

(nguồn: BCTC của TCB)

Tỷ lệ tiền gửi và vay các TCTD khác trên tổng tài sản của TCB cũng lên mức cao nhất trong vài năm trở lại đây giúp giảm thiểu chi phí huy động trong bối cảnh lãi suất ở thị trường 2 thấp. Không rõ đây là chiến thuật của ngân hàng nhằm giảm chi phí huy động hay còn lý do nào khác?

(nguồn: BCTC của TCB)

Share:

Thứ Tư, 16 tháng 6, 2021

Tránh mua cổ phiếu với giá quá đắt

Trong thư gửi cổ đông thường niên năm 2020, cụ Warren Buffett có viết một trích đoạn như sau:

"Thành phần cuối cùng trong Kết quả kinh doanh của chúng tôi (được lập theo Chuẩn mực kế toán) - khoản lỗ 11 tỷ USD xấu xí đó - gần như hoàn toàn là cái giá phải trả cho sai lầm tôi mắc phải vào năm 2016. Năm đó, Berkshire mua Precision Castparts (“PCC”) và tôi đã trả giá quá cao cho thương vụ đó.

Không ai đánh lừa tôi cả - đơn giản là tôi đã quá lạc quan về tiềm năng trưởng lợi nhuận cốt lõi của PCC. Năm ngoái, những tính toán của tôi đã bị chứng minh là sai lầm bởi thực tế tăng trưởng không mấy sáng sủa của ngành hàng không vũ trụ, nguồn khách hàng quan trọng nhất của PCC.

Khi mua PCC, Berkshire đã mua một công ty tốt - công ty tốt nhất trong ngành. Mark Donegan, Giám đốc điều hành của PCC,  là một nhà quản lý đầy nhiệt huyết, người luôn dồn hết tâm sức vào công việc kinh doanh như cách mà anh ấy đã làm trước khi chúng tôi mua lại công ty. Chúng tôi thật may mắn khi có anh ấy điều hành mọi thứ.

Tôi tin rằng tôi đã đúng khi kết luận rằng PCC, theo thời gian, sẽ kiếm được lợi nhuận tốt từ tài sản hữu hình của công ty. Tuy nhiên, tôi đã sai khi đánh giá lợi nhuận bình quân trong tương lai mà công ty có thể tạo ra và do đó, sai trong việc xác định một mức giá mua phù hợp.

PCC không phải là sai lầm đầu tiên của tôi, nhưng là một sai lầm lớn".

Nhìn lại một số cases trên thị trường chứng khoán Việt Nam, có thể thấy nhà đầu tư nếu không có kiến thức, kinh nghiệm trong việc xác định giá trị cổ phiếu (tham khảo về giá trị cổ phiếu tại đây) hoàn toàn có thể mắc phải sai lầm giống như cụ Warren Buffett (một nhà đầu tư thiên tài và kỳ cựu như cụ Buffett còn mắc phải sai lầm cơ mà), ví dụ như mua FPT với giá đắt tại đỉnh năm 2007 thì đến năm 2019 mới bắt đầu có lãi, hay mua ACB với giá cao tại đỉnh năm 2007 thì năm 2021 mới có lãi (như hình):




Trên thị trường, các công ty chứng khoán thường cung cấp các báo cáo phân tích định giá cổ phiếu, tuy nhiên phần lớn đi theo hướng dự đoán Giá cả cổ phiếu chứ không phải xác định Giá trị cổ phiếu, do đó các nhà đầu tư theo trường phái cơ bản/giá trị thì chỉ nên xem đó là một tài liệu tham khảo, và nên tự học phương pháp xác định Giá trị cổ phiếu một cách bài bản, phục vụ cho việc đầu tư của riêng mình.

Share:

Giá cả (Price) và Giá trị (Value)

2 khái niệm căn bản đầu tiên một nhà đầu tư cần biết trước khi đầu tư cổ phiếu là Giá cả (Price) và Giá trị (Value) của cổ phiếu. 

Giá cả của cổ phiếu là giá mà cổ phiếu đó đang được giao dịch trên thị trường. Nhà đầu tư có thể dễ dàng tìm kiếm được thông tin này đối với cổ phiếu niêm yết tại các website cung cấp thông tin như Vietstock hay Cafef. Giá cả của cổ phiếu biến động từng ngày, từng giờ, thậm chí là từng giây.


Nguồn: Vietstock

Giá trị của cổ phiếu là một khái niệm trừu tương hơn mà nhà đầu tư không thể quan sát được, tuy nhiên hoàn toàn có thể tính toán ước lượng được. Trước tiền cần phải hiểu nắm giữ cổ phiếu có nghĩa là đang nắm giữ 1 phần của doanh nghiệp (tham khảo: http://www.taichinhdautu.org/2021/04/dau-tu-co-phieu.html), do đó được hưởng một phần lợi ích mà doanh nghiệp đó làm ra trong suốt quá trình hoạt động. Giá trị của cổ phiếu chính là giá trị của các khoản lợi ích đó. Giá trị của cổ phiếu thường biến động ít hơn khi so sánh với Giá cả của cổ phiếu.

Trong đầu tư, để xác định Giá trị cổ phiếu, nhà phân tích/đầu tư thường sử dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền (dòng tiền này chính là các khoản lợi ích mà doanh nghiệp mang lại trong suốt thời gian hoạt động), và sau đó ra quyết định đầu tư dựa trên sự chênh lệnh giữa Giá cả và Giá trị cổ phiếu (bài viết này không bàn chi tiết về phương pháp xác định Giá trị vì nội dung này khá dài).

Một số trường hợp về Giá cả và Giá trị cổ phiếu như sau:

Thông thường, nhà đầu tư nên ra quyết định mua khi Giá cả thấp hơn Giá trị cổ phiếu. Tuy nhiên cần nên tránh các doanh nghiệp có xu hướng hoạt động sa xút, giá trị giảm đi theo thời gian. Bởi khi mua những doanh nghiệp này, có thể nhà đầu tư sẽ mua được mức giá hời (Giá cả < Giá trị), nhưng qua thời gian Giá trị doanh nghiệp giảm xuống khiến món hời của nhà đầu tư tan biến.


Share:

Thứ Tư, 9 tháng 6, 2021

Tiềm năng ngành Chứng khoán và Quản lý tài sản tại Việt Nam

Trên thế giới

Theo báo cáo mới nhất của PWC, ngành quản lý tài sản đã có một thập kỷ rực rỡ. Sau giai đoạn suy thoái kinh tế toàn cầu tăng trưởng khá chậm chạp (2007- 2012), tổng Tài sản được quản lý (Asset under management - AuM) toàn ngành bứt phá, đạt mức tăng trưởng bình quân hàng năm 6% và ước tính vượt 100 nghìn tỷ USD vào năm 2020. 

Nguồn: PWC, IMF, WB. Số liệu 2020 là dự phóng

Động lực tăng trưởng chính là sự gia tăng của tầng lớp trung lưu tại Châu Á, với tổng tài sản được quản lý ước tính vượt qua cả Châu Âu và Bắc Mỹ để chiếm tỷ trọng cao nhất vào năm 2020. Theo dự phóng của Statista thì số lượng tầng lớp trung lưu tại Châu Á tiếp tục tăng trưởng gần gấp 1.5 lần trong thập kỷ tới và - theo PWC đánh giá - là thị trường màu mỡ mà ngành Quản lý tài sản nhắm tới.

Nguồn: PWC, số liệu 2020 là dự phóng
Nguồn: Dự phóng của Statista
Việt Nam

Việt Nam là một nước Châu Á đang phát triển, với tốc độ tăng trưởng GDP thuộc top nhanh nhất toàn cầu. Tầng lớp trung lưu tại Việt Nam gia tăng nhanh chóng, trong khi đó số lượng tài khoản của cá nhân tại các CTCK vẫn ở mức thấp, chỉ chiếm 3% dân số.

Nguồn: Worldbank, GSO
Nguồn: Ủy ban Chứng khoán

Quy mô các quỹ nội cũng khá nhỏ bé so với quy mô GDP hay quy mô tiền gửi tại các ngân hàng. Tổng NAV quỹ nội tính đến thời điểm hiện tại chỉ khoảng 80 nghìn tỷ đồng, quá nhỏ bé so với quy mô tiền gửi ngân hàng giá trị hàng triệu tỷ đồng. Chứng khoán tại Việt Nam chưa cạnh tranh được với kênh gửi tiết kiệm, vàng hay bất động sản để trở thành kênh tích lũy tài sản chính của người dân. 

Nguồn: Ủy ban Chứng khoán

Tuy nhiên tôi cho rằng Việt Nam sẽ không nằm ngoài xu hướng của thế giới. Khi kinh tế ngày càng phát triển, thu nhập bình quân đầu người tăng, thị trường chứng khoán mở rộng cả về quy mô thị trường, số lượng doanh nghiệp chất lượng được niêm yết,  sản phẩm đa dạng... thì đầu tư chứng khoán sẽ ngày càng trở nên phổ biến. Có thể thấy thị trường tiềm năng của các công ty Chứng khoán và Quản lý quỹ còn rất lớn và đang chờ được khai phá. 

Share:

Thứ Tư, 19 tháng 5, 2021

Thời điểm đẹp nhất của ngành ngân hàng liệu sắp qua?

Nhìn lại chu kỳ 10 năm gần nhất, ngành ngân hàng có vẻ như đang ở thời kỳ tốt nhất của mình. Lợi nhuận các ngân hàng liên tục đạt những đỉnh cao mới. Một phần nhờ quy mô tài sản và hiệu quả sinh lời gia tăng, một phần nhờ chất lượng tài sản được cải thiện đáng kể.

Đầu thập kỷ trước, sau một giai đoạn tăng trưởng nóng, từ giữa năm 2011, nhiều tổ chức tín dụng (TCTD) rơi vào tình trạng nợ xấu tăng nhanh, thanh khoản yếu kém, khả năng sinh lời suy giảm. Theo báo cáo chính thức của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), nợ xấu ngành ngân hàng vào thời điểm 30/09/2012 lên đến 17,21% tổng dư nợ tín dụng. Trước áp lực này, đến giữa năm 2013, Chính phủ ra quyết định thành lập công ty Quản lý tài sản VAMC nhằm mục đích xử lý nợ xấu, đảm bảo an toàn cho hệ thống TCTD.

(Số liệu tính trên 8 ngân hàng lớn, chiếm 60% dư nợ toàn hệ thống)

Nhờ VAMC, lợi nhuận báo cáo của các Ngân hàng không bị ảnh hưởng mạnh trong ngắn hạn (do thay vì trích lập dự phòng ngay nợ xấu, các Ngân hàng được phép trích dần trong 5 năm), mà lại chịu ảnh hưởng nhỏ hơn trong thời gian dài. Các Ngân hàng hàng đầu phải đến giai đoạn năm 2017 – 2018 mới trích lập xong hết nợ xấu bán cho VAMC, trong khi một số TCTD top sau đến thời điểm hiện tại (2021) vẫn chưa xử lý xong. Khi không còn áp lực từ nợ xấu VAMC, các Ngân hàng đều ghi nhận lợi nhuận tăng trưởng vượt bậc.

(Số liệu tính trên 8 ngân hàng lớn, chiếm 60% dư nợ toàn hệ thống)

Ảnh hưởng của nợ xấu là rất lớn đến lợi nhuận của các Ngân hàng. Không may thay, đầu thập kỳ này, hệ thống Ngân hàng lại đối mặt với rủi ro nợ xấu gia tăng do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Qua đồ thị ở trên, có thể thấy các số liệu tài chính đến hết năm 2020 vẫn khá đẹp và dường như chưa bị ảnh hưởng của đại dịch. Đối diện với rủi ro lần này, NHNN đã sớm ban hành cơ chế cho phép các Ngân hàng được trích lập nợ xấu ảnh hưởng bởi đại dịch trong vòng 3 năm, tương tự như cơ chế VAMC trước đây, để tránh những cú hit quá mạnh lên toàn bộ hệ thống. Không chỉ riêng NHNN, hệ thống Ngân hàng sau 10 năm đã có nhiều cải thiện về mặt quản trị rủi ro, như xây dựng hệ thống phân cấp thẩm quyền hợp lý hơn; áp dụng các tiêu chuẩn Quản trị rủi ro tiên tiến như Basel 2..., do đó có thể kỳ vọng rủi ro nợ xấu lần này sẽ nhẹ nhàng hơn. Tuy nhiên không ai có thể dám chắc điều này, là một nhà đầu tư thì cũng nên hoài nghi và thận trọng !

Tuyên bố miễn trách: Bài viết chia sẻ quan điểm cá nhân, không khuyến nghị mua bán cổ phiếu, và thực tế tôi cũng không đoán được giá cổ phiếu tăng hay giảm. 

Công bố về mâu thuẫn lợi ích: Tại thời điểm viết và đăng bài, tôi nắm giữ vị thế liên quan đến cổ phiếu ngành ngân hàng, được hưởng lợi từ việc tăng giá cổ phiếu ngành này.

Share:

Thứ Ba, 18 tháng 5, 2021

Tại sao lại gọi là Bull và Bear Market ?



Đã bao giờ bạn thắc mắc tại sao thị trường tăng lại gọi là Bull market (Thị trường bò tót), còn khi thị trường giảm lại gọi là Bear market (Thị trường con gấu) chưa?

Các thuật ngữ Bear - "gấu" và  Bull - "bò tót" được cho là bắt nguồn từ cách mà mỗi con vật tấn công đối thủ của mình. Tức là, một con bò đực sẽ húc sừng lên không trung, trong khi một con gấu sẽ vuốt xuống. Những hành động này là sự ẩn dụ đến sự chuyển động lên, xuống của thị trường. 

Nguồn: Investopedia
Share:

Chủ Nhật, 18 tháng 4, 2021

Đầu tư Cổ phiếu

1. Cổ phiếu là gì?

Cổ phiếu là chứng nhận phần vốn góp vào công ty cổ phần. Bạn sở hữu cổ phiếu của công ty, bạn có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của cổ đông (chủ sở hữu) như nhận được cổ tức, được tham dự đại hội cổ đông, được bỏ phiếu thông qua các quyết sách của công ty...

2. Mua cổ phiếu như thế nào?

Công ty cổ phần có thể phân làm 2 loại:

- Công ty niêm yết: là các công ty niêm yết cổ phiếu của mình trên các sàn giao dịch chứng khoán Hồ chí minh (HOSE), sàn giao dịch Hà Nội (HNX) và sàn giao dịch Upcom. Các công ty niêm yết thường phải đáp ứng một số điều kiện nhất định về mặt hoạt động (như kinh doanh có lãi…) và công bố thông tin định kỳ, do đó đầu tư vào các công ty này thường an toàn hơn đầu tư vào các công ty không niêm yết. Các yêu cầu niêm yết trên HOSE chặt chẽ hơn HNX và hơn Upcom (HOSE > HNX > UPCOM).

- Công ty không niêm yết: không phải các công ty niêm yết nêu trên.

Để mua cổ phiếu của công ty không niêm yết, bạn có thể mua thông qua các đợt chào bán của công ty hoặc tự chủ động tìm kiếm các cổ đông hiện hữu của công ty và đề xuất mua lại. Mua cổ phiếu của các công ty này khá rủi ro và thường chỉ phù hợp những nhà đầu tư chuyên nghiệp.

Để mua cổ phiếu của các công ty niêm yết, bạn có thể mua ngay trên các sàn giao dịch chứng khoán. Việc cần làm chỉ là mở tài khoản ở một công ty chứng khoán, sau đó bạn sẽ được nhân viên công ty hướng dẫn thực hiện các giao dịch mua bán cổ phiếu của các công niêm yết. 

(Các nội dung tiếp theo nói về cổ phiếu của công ty niêm yết).

3. Kiếm lời từ mua cổ phiếu như thế nào?

Bạn có thể kiếm lời từ thông qua nhận cổ tức hoặc từ việc cổ phiếu tăng giá.

- Cổ tức là phần lợi nhuận công ty làm ra hàng năm và quyết định trả cho cổ đông.

- Tăng giá cổ phiếu: Có nhiều lý do để cổ phiếu tăng giá, tuy nhiên lý do căn bản và bền vững nhất là do doanh nghiệp làm ăn tốt lên, làm ra nhiều lợi nhuận và đem lại nhiều lợi ích cho cổ đông (dòng tiền). Bạn có thể nhìn hình dưới đây để thấy lợi nhuận làm ra hàng năm và giá cổ phiếu của Ngân hàng Vietcombank trong vòng 5 năm trở lại đây.

4. Đầu tư cổ phiếu cần có kiến thức

Đầu tư cổ phiếu phù hợp với đa số mọi người, tuy nhiên bạn cần biết rằng công việc này cũng ẩn chứa nhiều rủi ro. Bạn có thể mua phải cổ phiếu của doanh nghiệp tốt nhưng với giá quá đắt, hoặc có thể mua phải cổ phiếu doanh nghiệp hoạt động sa sút khiến giá ngày càng giảm và không có lợi nhuận để trả cổ tức, hoặc thậm chí bạn có thể bị lừa mua phải những công ty rỗng ruột (tài sản ảo, không hoạt động kinh doanh…).

Do đó để đầu tư cổ phiếu thành công, bạn cần trang bị cho mình các kiến thức, kỹ năng cần thiết và dành thời gian để nghiên cứu, phân tích cổ phiếu/doanh nghiệp; hoặc nếu thời gian eo hẹp, bạn có thể ủy thác cho những người có chuyên môn đầu tư thay mình (như mua chứng chỉ quỹ của các quỹ đầu tư) và trả cho họ một mức phí nhất định.


Xem thêm quan điểm của Warren E.Buffett tại: http://www.taichinhdautu.org/2021/06/quan-diem-ve-dau-tu-co-phieu-warren-buffet.html

Share: